寒山寺
Hàn
San Tự
*
aiviconuong
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Ngoài thành Cô Tô có ngôi chùa Hàn San.
Cô Tô được nói là tên gọi cũ của thành phố Tô Châu ngày nay.
Từ Thượng Hải lộng lẫy về đến trung tâm Tô Châu trời cũng đã xế tà. Ánh nắng mùa hè vẫn còn chói gắt tưởng làm khó chịu lập tức bị chặn đứng bởi những hàng liễu rủ lả lơi muôn đời bên dòng Đại Vận Hà, cảm giác mát dịu tràn ngập.
Liễu thì ngả bên sông, con trên đường ngập bóng ngô đồng.
Đi dọc phố cổ Tô Châu, luôn có một dòng Đại Vận Hà cùng song hành mải miết. Sông nước Giang Nam mê hoặc vua Càn Long hàng trăm năm trước như không chút đổi thay sau ba trăm năm. Liễu rũ bên sông, những mái nhà cổ thấp, nằm trầm lắng trong tiếng gió chiều thổi nhẹ. Sông dường như không muốn trôi...
Và trong gió chiều lay nhẹ qua hàng dương liễu, lạc vào Hàn San tự.
Đọc Phong Kiều dạ bạc mà bao đêm mơ về Hàn San tự. Những đêm lạnh khó ngủ, nhẩm lại trong đầu bài tứ tuyệt của thi sĩ họ Trương, mơ được sống một đêm đan tay một người đi trong tiếng chuông chùa lan trên sông...
Và giấc mơ đó đang dần hiện rõ...
Chùa Hàn San giờ nằm ở phố Phong Kiều. Bảng chỉ đường ghi Phong Kiều lộ...
Phố Phong Kiều nằm bên hông chùa, một con đường rộng với những hàng cây dương gầy nhưng cho nhiều bóng mát.
Hàn San tự được tỉnh Giang Tô công nhận là di tích lịch sử cần bảo quản năm 1985.
Không biết tiếng Hoa nên không hiểu sao tên tiếng Anh của chùa lại là Universal Brightness (chùa Tinh Cầu?). Thông tin cho thấy chùa phần lớn làm bằng gỗ:
Hàn San tự nổi tiếng với cây phong bên sông của câu Giang phong ngư hỏa đối sầu miên. Trong ánh chiều trong vắt, hàng cây phong vẫn còn đó, ngay trên Phong Kiều lộ, nhưng tất nhiên chẳng thể nào thấy được chiếc đèn cô đơn trên thuyền ngư phủ đang chìm trong màn sương với giấc ngủ buồn (đối sầu miên).
Hàn San tự nếu không nhờ Phong Kiều dạ bạc có lẽ không ai biết đến. Một ngôi chùa bình thường (nếu xét theo hàng ngàn kiến trúc vạn năm của cổ quốc này), rồi bỗng đâu xuất hiện chàng thư sinh Trương Kế, một đêm lạc bến Giang Nam, xuất khẩu Phong Kiều dạ bạc.
Đêm đó:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên...
Đến giờ người ta vẫn còn tranh cãi, rằng Trương Kế chỉ khéo tưởng tượng, hoặc bảo Ô Đề và Sầu Miên tức hai địa danh ở đây, rồi ngày ấy cũng chẳng có "ngư hỏa" gì đâu... Mà thôi, thế thì đừng đọc thơ vì thi nhân làm gì cần chứng cớ thực tế. Thơ đi vào lòng người, không cần lý lẽ...
“Giang phong” của Trương Kế đây, trước cửa chùa, nhưng cặp bờ sông không phải những hàng phong mà hai bờ liễu rủ theo sông mải miết về phương Đông…
Trịnh Dĩnh Minh, cô bạn người Thượng Hải, bảo, người ta vì bài thơ Phong Kiều dạ bạc mà đến đây nhưng ít người biết Hàn San tự chính là một ngôi chùa cầu duyên.
*(Trịnh Dĩnh Minh là cô gái rất nice. Tên cũng hay. Dĩnh có nghĩa là thông minh. Minh là sáng láng. Bố mẹ Minh là giáo sư đại học ở Thượng Hải, đặt tên cho cô con gái rượu với mong con mình thông minh, tài trí hơn người).
Năm 1992, một bạn từ Đài Loan sang Hàn San tự cầu duyên được như ý nguyện, đã trở lại cúng dường bức tượng Phật Quan Âm này.
Trong gian bên tả chánh điện, phía trước là tượng Quan Âm, phía sau là hàng trăm bức tượng La Hán bằng gỗ trăm năm.
Thì ra, từ nay, ta đến Hàn San tự để cầu duyên.
![]()
Đúng vào lúc đặt chân qua ngưỡng cửa thiền, bỗng nghe tiếng kinh chiều trầm bổng...
Và tiếng chuông vọng khắp thành Cô Tô...
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Giờ chưa đến dạ bán nhưng chung thanh thỉnh thoảng cứ vang lên. Đứng giữa sân chùa, trước tháp chuông, mới biết Trương thi sĩ lúc xưa không ngờ mình được nghe "chung thanh" miễn phí. Vì bây giờ, vào Hàn San tự phải mua vé và muốn gióng chuông cũng phải đến chỗ này:
Bỏ ra 5 tệ (khoảng 13.000 đồng) mua vé:
Rồi vào tháp chuông này:
![]()
Gióng vào "chung" này:
Quy định rõ, chỉ gióng 3 tiếng, đừng đánh tiếng thứ tư. Ba tiếng đại diện cho Phúc, Lộc, Thọ. Tiếng thứ tư coi như kiếp nạn không luân hồi được. Giống như chuyện hai nhà sư Thập Đắc và Hàn San đây.
Ông Thập Đắc (có nghĩa là "nhặt được") là trẻ sơ sinh bỏ rơi trước cửa Hàn San tự rồi được sư thầy đưa vào chùa nuôi. Cùng lứa với Thập Đắc còn có chú bé Hàn San. Hai sư này khắc khẩu, lúc nào cũng cãi nhau. Bao nhiêu kiếp vẫn không siêu thoát vì cứ mãi tranh cãi. Đến lúc sư trụ trì nằm xuống, gửi lại cho Thập Đắc một chiếc bình hoa, còn Hàn San một cành hoa sen. Hoa, đọc trại theo tiếng Hán là hòa, ngụ ý của sư trụ trì là sự kết hợp của hai người sẽ mang lại hòa bình.
Du khách thường đến gian này để cầu tình yêu, tình duyên và gia đạo luôn bình bình an an, hoa khai phú quý.
![]()
Thập Đắc cầm chiếc bình, Hàn San cầm cành hoa sen.
Hàn San tự không bao giờ ngớt khách thập phương.
Hằng năm, đến ngày thầy trụ trì cầu bình bình an an, hoa khai phú quý, Phật tử đến sẽ được phát những băng vải đỏ, ghi lời cầu nguyện và thắt lên cây.
Cả ngôi chùa bên sông, rợp mát bóng cây này rực một màu đỏ may mắn, thấy lòng cuộn lên một nỗi niềm phương Đông thiêng liêng không sao diễn tả được. Bồi hồi lạ lùng...
Hàn San tự và Cô Tô thành nhìn từ tháp Báo Minh, nơi được xây dựng sau này:
![]()
Và gần hơn một chút:
Đi khắp Trung Quốc, ai cũng nghe câu: Ăn ở Quảng Châu, chơi ở Hàng Châu, lấy vợ Tô Châu, uống rượu Quý Châu, chết ở Liễu Châu.
5 châu này nhiều người ham hố.
Quảng Châu món ăn nức tiếng Đại Lục.
Hàng Châu cảnh đẹp si mê lòng người (ít nhất là mình).
Quý Châu nổi tiếng với quốc túy Mao Đài.
Liễu Châu có loại gỗ tốt hàng trăm năm, chuyên dùng đóng áo quan cho hoàng tộc.
Và Tô Châu có Tây Thi.
Thật ra, Tây Thi vốn không phải là người Tô Châu mà ở Hàng Châu (được xem là nước Việt ngày xưa). Gái nước Việt phải gả sang nước Ngô cho vua Phù Sai. Nước Ngô giờ là Tô Châu nên cả Đại Lục đều tin: muốn tìm vưu vật Trung Hoa phải về Tô Châu, may ra còn hậu duệ Tây Thi ở đây.
Lại có câu: Trên trời có thiên đàng, dưới đất có Tô Hàng. Ý nói, thiên đường ở đâu xa. Cứ về Giang Nam thì biết. Hàng Châu có cảnh đẹp, còn gái đẹp cứ về Tô Châu tìm.
Nhưng đừng tin, vì gái Tô Châu trông rất chán.
Minh nói, có lẽ gái Tô Châu bỏ xứ đi hết rồi.
Loại 1 thì sang Tây lấy chồng
Loại 2 thì đi trình diễn trong Tống Thành ở Hàng Châu (Đây là một trong những sô diễn nổi tiếng có thứ hạng thế giới. Năm ngoái, người ta phải về Hàng Châu để học kỹ thuật biểu diễn của Tống thành để tái hiện lại trong Olympic Bắc Kinh)
Loại 3 thì đi diễn thời trang trong xưởng tơ lụa Tô Châu. (Mình có nhìn thấy mấy cô em loại này, trông chán như nhìn Chương Tử Di vậy!).
Nên vua Càn Long tái thế đừng ham về Cô Tô tìm giai nhân nữa nhé!
Và Hàn San tự, cuối cùng vẫn chỉ là hư danh. Khi mà ngôi chùa sực lên một mùi thương mại đến khó chịu, như một tay nhà giàu lố bịch được nịnh hót của đám bầy tôi.
Mà ở đâu có người Tàu, ở đó có Chinatown. Hàn San tự cũng thế:
Nhưng sao Tô Châu vẫn dậy lên một niềm u hoài dễ chịu.
Vì trong lòng Tô Châu, nơi không được phép xây nhà cao quá 6 tầng, nơi những hàng ngô đồng Pháp chạy tít tắp, những cây cầu đá bắc qua sông, nơi có gần chục di sản thiên nhiên thế giới (mà không có Hàn San tự) được vinh danh vẫn níu chân du khách không muốn rời.
Vì trong lòng Tô Châu, hai ngàn năm trăm năm trước, Ngô Phù Sai sống rong chơi không màng chính trị, cảnh sông nước Giang Nam dẫn hồn người lạc bước thiên đàng, để an nhàn tâm hồn, để quên giang sơn vì chỉ còn mỹ nhân Tây Thi, để biết rằng "sống trong lòng người đẹp Tô Châu" là một mãn nguyện của đời người.
Tô Châu ngàn năm vẫn còn đó, sông nước một bên, những nếp tường cổ chạy dọc một bên. Đêm ấy lạc vào con ngõ nhỏ vắng người, nghe tiếng thở của thời gian dường như bất diệt nơi cây phong đang dần ngả màu trong sắc trời sang thu, mới biết không cần gì, khi tâm hồn mình lay động, chơi vơi, bàng bạc một "sầu miên".
楓橋夜泊
張継
Thơ:
Phong Kiều Dạ Bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Trương Kế (? -756?)
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
(Tản Đà chuyển dịch)
IvyLai's house
Liên kết:
( * ) Phong Kiều Dạ Bạc Trương Kế
( * ) Ðến Hàn san tìm hiểu về bài thơ Phong kiều dạ bạc của Trương Kế Nguyễn Quảng Tuân
( * ) Hàn San Thập Ðắc Và Hàn San Tự Lý Nhược Tam
( * ) Góp bàn về bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nhiều người viết